gốm sứ việt nam qua các thời kỳ
Có thể nói chưa bao giờ thơ ca Việt Nam và gốm sứ Việt Nam lại có cuộc hội ngộ kỳ diệu đến như vậy. 15 áng thơ bất hủ cuả các nhà thơ cổ điển Việt Nam cùng 55 câu thơ đặc sắc của Việt Nam được tuyển chọn trong 10 thế kỷ đã phô bày vẻ đẹp trong muôn màu
Hơn 20 năm đi "góp nhặt" cổ vật gốm sứ, đến nay, đến nay "khối tài sản" của nhà sưu tầm Đinh Công Tường đã vượt quá con số 80.000 cổ vật và ông trở thành một trong những người sở hữu nhiều đồ cổ gốm sứ nhất Việt Nam, xứng danh "vua gốm sứ cổ" Việt Nam mà người trong giới "cổ - kỳ
Thời kỳ đồ đồng: ở Việt Nam (cách đây 4 nghìn năm), hầu hết các sản phẩm gốm được hình thành bằng bàn xoay một cách khá thành thạo, do vậy tạo nên sự phong phú về chủng loại và kiểu dáng sản phẩm: ngoài các sản phẩm đun nấu còn thấy những sản phẩm gốm để
Chiêm ngắm những cổ vật hiếm thấy qua các thời kỳ ở Việt Nam. Thứ năm, 25/10/2018 - 06:00. (Dân trí) - Bảo tàng Ninh Bình đang trưng bày hàng trăm cổ vật thời phong kiến Việt Nam. Đây đều là những cổ vật có giá trị lịch sử to lớn, hiếm có từ thời Đông Sơn, Đinh Lê
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). Ngay sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân
Thông qua các hiện vật, Bảo tàng Lịch sử quốc gia giới thiệu tiến trình lịch sử gốm sứ Việt Nam đã có từ rất lâu đời với nhiều bước phát triển, gắn liền với các giai đoạn lịch sử, văn hóa nước ta. Trưng bày giới thiệu đến công chúng gần 80 hiện vật, trong
Cashberry Lừa Đảo. Gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ trải dài từ trước công nguyên đến nay mang nhiều giá trị lịch sử và truyền thống của làng nghề gốm sứ Việt Nam. Sứ Long Phương sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về hành trình lịch sử gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ. Gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ 1. Hành trình lịch sử phát triển gốm sứ Việt Nam Hành trình lịch sử gốm sứ Việt trải đã trải qua hàng trăm năm xây dựng, giữ gìn, bảo tồn và phát triển đồng hành cùng sự phát triển của đất nước. Bắt đầu với gốm Việt Nam 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Cách ngày nay trên 6000 – 7000 năm, từ những kỹ thuật mới trong chế tác đồ gốm mới được manh nha, nghề gốm Việt Nam với trình độ và kinh nghiệm truyền thống sẵn có đã nhanh chóng tiếp thu, nắm vững và phát triển để tạo nên những sắc thái riêng biệt, trở thành một trong số ít các quốc gia có nghề sản xuất đồ gốm men ra đời sớm và phát triển liên tục. Gốm sứ đã xuất hiện ở nhiều vùng trên đất nước, trải qua bao nhiêu thăng trầm gốm sứ Việt Nam đã có lúc phát triển mạnh, nhưng cũng có lúc gặp khó khăn lớn. Có nhiều làng nghề vẫn còn tồn tại và phát triển cho tới ngày nay nhưng ngược lại cũng có những làng nghề dần mai một và biến mất đi khỏi bản đồ gốm sứ Việt Nam. Tổng hợp 7 kỹ thuật vẽ gốm sứ từ nghệ nhân của Việt Nam TẠI ĐÂY 2. Các giai đoạn gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ Gốm sứ Việt Nam thời kỳ sơ khai Thời kỳ đồ đá Chất liệu gốm đất nung của giai đoạn này thường thô có pha lẫn cát hoặc bã động vật. Phần lớn gốm được nặn bằng tay, mảnh gốm tìm được thường có những hoa văn đơn giản ở phía ngoài như vạch chéo, văn sóng, văn chải răng lược… Các hoa văn này được tạo ra khi đồ gốm còn ướt, một số được tạo bằng các bàn dập, hoặc dùng que nhọn để vẽ, vạch. Các sản phẩm chủ yếu của giai đoạn này là đồ đựng và đun nấu, về cuối ta thấy thêm các loại đồ dùng để ăn uống, trang sức, tuy nhiên thực dụng là yếu tố hàng đầu của các loại gốm thời đó. Thời kỳ đồ đồng Hình ảnh gốm sứ Thời kỳ đồ đồng Sau một thời gian hình thành khá dài, đồ gốm đất nung bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ, bước phát triển thứ nhất trong lịch sử gốm Việt Nam. Hầu hết các sản phẩm gốm dân dụng được thành hình bằng bàn xoay một cách khá táo bạo, đã tạo nên sự phong phú của các loại hình và kiểu dáng sản phẩm ngoài nồi chõ dùng để đun nấu, còn thấy vò, bình, chậu, những sản phẩm để chứa đựng, bát, đĩa, chén, mâm bồng dùng trong ăn uống; hoa tai, chuỗi hạt, vòng tay bằng gốm, đồ trang sức, tượng gà, bò, gốm mỹ thuật. Tìm hiểu các sản phẩm men rạn từ chuyên gia Thời kỳ đồ sắt Thời kỳ này là thời kỳ sản xuất ra đồ gốm đất nung. Chất liệu gốm đất nung còn non lửa và thô sơ, so với gốm đất nung đang sản xuất hiện nay, nhưng về mặt tạo dáng và trang trí chưa có thời kỳ nào đặc sắc và phong phú bằng. Vì thế khi nhắc đến đồ gốm đất nung thì tiêu biểu vẫn là của thời đại các vua Hùng thời đại đồng – sắt sớm. Gốm Việt Nam từ thế kỷ II TCN Chiếc bát từ gốm sứ đầu thế kỷ II TCN Từ đầu thế kỷ II TCN, nước ta rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Do bị đô hộ nên sự phát triển của gốm sứ bị ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Trung Hoa. Các sản phẩm với các đa dạng các tạo hình và hoa văn trang trí có biến đổi nhiều hơn, vẫn bảo lưu và phát triển vốn nghệ thuật cổ truyền từ thời đại trước. Đồng thời hấp thụ và dân tộc hóa những yếu tố vay mượn từ bên ngoài. Tìm hiểu chi tiết gốm Bizen Thời kỳ độc lập từ thế kỷ XI đến XIV Từ thế kỷ thứ 10, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng các nhà nước phong kiến dân tộc độc lập. Nghề làm đồ gốm có sự phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế, văn hoá, tạo thành bản sắc riêng có, loại hình phong phú, trang trí đa dạng, độc đáo về mỹ thuật. Gốm Lý-Trần, ta có thể chia thành ba nhóm lớn gốm gia dụng, gốm trang trí và gốm kiến trúc. Về tạo dáng gốm gia dụng, nhiều sản phẩm đã được kế thừa và nâng cao, các sản phẩm được tạo dáng trên cơ sở các mẫu trong đời sống như hoa quả, dáng của đồ đồng xưa Về trang trí, gốm Lý – Trần có bước ngoặt mới. Những họa tiết chính là hoa, lá, chim, voi, hổ, người với miêu tả giản dị, mộc mạc, gần gũi thiên nhiên và con người Việt Nam Đồ gốm sứ thời Lý Trần Đặc biệt trong giai đoạn này đã có bước tiến lớn về kỹ thuật nung, các thợ làm nghề đã biết sử dụng con cóc, lò nằm, lò rồng để nâng nhiệt độ nung sản phẩm lên cao từ 1200 độ C đến 1280 độ C Giai đoạn gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ này phát triển mang tính độc lập, khám phá những đề tài trang trí mang đậm tính bản địa của người Việt, tạo nên một trong những trang sử rực rỡ nhất của truyền thống. Các sản phẩm với loại hình phổ biến là liễn, ấm chén, đài sen, âu, tô đĩa…. sản xuất phục vụ sinh hoạt, tiêu dùng từ cung đình đến dân gian. Đặc biệt, thời kỳ này đã hình thành và phát triển các dòng gốm men phong phú, đa dạng như gốm men trắng, gốm men ngọc, gốm men xanh lục, gốm men nâu, gốm hoa nâu và cuối thế kỷ XIV xuất hiện gốm hoa lam. Gốm sứ Việt Nam từ sau thế kỷ XIV Giai đoạn sau thế kỷ XIV, Gốm Việt Nam đã biết nắm bắt các mối quan hệ giao lưu thương mại giữa nhiều nước trên thế giới đã có tác động lớn đến các hoạt động thủ công nghiệp, trong đó có nghề gốm. Trước hết là sự hình thành các trung tâm sản xuất gốm tính chất chuyên môn hóa Thăng Long, Thổ hà Hà Bắc, Phù Lãng Hà Bắc, Hương Cang Vĩnh Phúc,… Bình sứ giai đoạn sau thế kỷ XIV Đồ gốm trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng, được sản xuất nhiều chủng loại có trình độ kỹ thuật cao với các loại hình chủ yếu là đồ dùng sinh hoạt, đồ thờ bát, đĩa, âm, ang, hộp lư hương, tượng nghệ, chân đèn…, dòng men tiêu biểu là hoa lam, nhiều màu, lam xám, với đề tài trang trí chủ yếu là rồng, phượng, mây, nghê… Gốm sứ Việt Nam từ thế kỷ XX đến nay Gốm sứ Việt Nam đến nay đã phát triển và kế thừa những tinh hoa của thời trước rất nhiều các lò nung thủ công đã thay bằng lò nung gas hiện đại, đảm bảo đáp ứng sản xuất hàng loạt. Sản phẩm đa dạng mẫu mã, hoa văn đẹp mắt, phong phú và nổi bật. Có thể nói lịch sử hình thành và phát triền nền văn hóa gốm sứ Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. Tuy nhiên với tâm huyết và bàn tay tài hoa, khéo léo của những nghệ nhân cùng lòng nhiệt huyết với các sản phẩm gốm sứ đã giúp cho những sản phẩm gốm sứ Việt Nam không chỉ phát triển trong nước mà còn nhanh chóng vươn ra khỏi lãnh thổ Việt Nam và được đông đảo bạn bè quốc tế, người tiêu dùng ưa chuộng. 3. Long Phương- Địa chỉ gốm sứ gia dụng tin cậy Phát triển từ cái nôi của gốm sứ Hà Bắc, Công ty cổ phần Tập đoàn Long Phương đã có lịch sử phát triển hơn 20 năm trong nghề gốm sứ. Các nghệ nhân có tay nghề cao, các sản phẩm đa dạng mẫu mã, hoa văn bắt mắt đáp ứng cao nhu cầu của thị trường. Công nghệ sản xuất được thay đổi, học hỏi từ các nước phát triển, Long Phương tự hào là địa chỉ gốm sứ tin cậy được lựa chọn bởi hàng triệu người tiêu dùng. Công ty Sứ Long Phương Có thể bạn quan tâm Tổng hợp các bài viết về gốm sứ gia dụng LPG Nghệ thuật gốm sứ Trung Quốc có gì độc đáo? Gốm sứ khác nhau thế nào? Cách phân biệt gốm và sứ đơn giản Khám phá những nét độc đáo của làng nghề gốm Đồng Nai Cách nhận biết gốm sứ cổ đơn giản, chính xác Thông tin liên hệ Công ty Cổ phần Tập đoàn Long Phương Website hoặc Hotline +84 989 595 866 Địa chỉ Cụm CN Hạp Lĩnh, TP Bắc Ninh Email info Maps Ấm bầu sứ trắng cao cấp Long Phương 69,700₫ – 99,400₫ trên 5 dựa trên 7 đánh giá Bộ bát đĩa 08 món Dây Xanh – Sứ Cao Cấp 440,400₫ trên 5 dựa trên 2 đánh giá Ấm lùn sứ trắng cao cấp Long Phương 44,400₫ – 99,400₫ trên 5 dựa trên 3 đánh giá Bộ bát đĩa Hoàng Kim – Sứ trắng viền vàng 1,328,000₫ Bộ bát đĩa quà tặng An Nhiên 13 món cao cấp 799,000₫ trên 5 dựa trên 1 đánh giá Bộ bát đĩa 08 món Hoa Hồng Bạc – Sứ Cao Cấp 440,400₫ trên 5 dựa trên 2 đánh giá
SVVN - Ngày 07/06/2023, Ngài Yamada Takio - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam đã đến thăm và có bài chia sẻ về “Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản Khởi nguồn và tương lai” cho hơn 300 giảng viên, sinh viên Trường Đại học Ngoại thương tại Trụ sở chính Hà Nội. Ban lãnh đạo Trường Đại học Ngoại thương cùng Ngài Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam Yamada Takio và Bí thư thứ hai phụ trách giáo dục Okamoto Noriko tại buổi tiếp xã giao trước buổi chia sẻ. Đây là sự kiện nằm trong chuỗi chương trình hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản. Tham dự buổi nói chuyện còn có sự hiện diện của Bà Okamoto Noriko - Bí thư thứ hai phụ trách giáo dục Đại sứ Nhật Bản. Về phía Trường ĐH Ngoại thương có PGS, TS Bùi Anh Tuấn – Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Nhà trường, PGS, TS Lê Thị Thu Thủy - Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng Trường; PGS, TS Phạm Thu Hương - Uỷ viên Ban Thường vụ Đảng uỷ, Phó Hiệu trưởng; PGS, TS Cao Đinh Kiên - Trưởng Phòng Hợp tác quốc tế; TS Trần Thị Thu Thuỷ - Trưởng Khoa Tiếng Nhật; PGS, TS Nguyễn Thị Hiền - Viện Trưởng Viện Phát Triển Nguồn Nhân Lực Việt Nam - Nhật Bản VJCC; Trưởng/ Phó một số đơn vị trong Trường cùng đông đảo sinh viên, cán bộ Nhà trường. Phát biểu chào mừng tại sự kiện, PGS, TS Bùi Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương khẳng định “Trong những năm qua, hợp tác giữa Trường Đại học Ngoại thương và các trường đại học, các tổ chức, doanh nghiệp của Nhật Bản phát triển mạnh mẽ và được coi là một trong những hướng hợp tác chiến lược của Nhà trường. Với sự nỗ lực của thầy và trò, Trường Đại học Ngoại thương đã trở thành một trong những trung tâm kết nối hợp tác các trường đại học, các tổ chức, các doanh nghiệp của Nhật Bản đến với Việt Nam. PGS, TS Bùi Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương phát biểu tại chương trình. Một số kết quả điển hình của hợp tác của Nhà trường với các đối tác Nhật Bản có thể kể đến như i Dự án Viện Phát Triển Nguồn Nhân Lực Việt Nam - Nhật Bản VJCC do JICA tài trợ đã được thực hiện thành công trong gần 20 năm qua với chương trình đào tạo đội ngũ doanh nhân hàng đầu ở Việt Nam như Chương trình Keieijuku. ii Chuỗi bài giảng và cuộc thi kinh doanh Business Contest hợp tác với JETRO; ii Chuỗi bài giảng cho sinh viên được tổ chức bởi Công ty Mitani Sangyo, Ngân hàng Mizuho với sự tham gia trực tiếp của lãnh đạo nhiều công ty, tập đoàn hàng đầu của Nhật Bản như Công ty Mitani Sangyo, Ngân hàng Mizuho, Công ty Toyota, Hãng hàng không Japan Airlnes...; iii Chương trình cử nhân kinh doanh quốc tế theo mô hình tiên tiến của Nhật Bản, chương trình cử nhân Kinh doanh số với sự tham gia của nhiều trường đại học Nhật Bản như Đại học Rykkyo, Đại học Waseda, Học viện công nghệ Chiba, Đại học Kanto Gakuin cũng như sự tham gia của nhiều doanh nghiệp Nhật Bản. Hai chương trình đào tạo cử nhân này được coi là hình mẫu trong hợp tác về đào tạo của Trường Đại học Ngoại thương với các trường đại học, doanh nghiệp của Nhật Bản hiện nay. iv Hợp tác trong triển khai thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học và tổ chức hội thảo khoa học quốc tế với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, giảng viên Đại học Việt Nam và Nhật Bản. v Hợp tác thực hiện chương trình liên kết đào tạo với nhiều trường đại học của Nhật Bản ĐH Aomori Chuo... thực hiện chương trình trao đổi sinh viên với hơn 30 trường đối tác, mở văn phòng hợp tác của một số trường đại học uy tín Nhật Bản hiện diện tại Trường Đại học Ngoại thương… Gửi lời chào mừng và cảm ơn sâu sắc tới Ngài Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam, PGS, TS Bùi Anh Tuấn cũng bày tỏ sự tin tưởng rằng bài chia sẻ của Ngài Yamada Takio sẽ cung cấp cho cán bộ giảng viên và sinh viên một cái nhìn toàn cảnh về quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản đi theo suốt chiều dài lịch sử, từ quá khứ, đến hiện tại và hướng tương lai của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Qua đó, các cán bộ, giảng viên, các em sinh viên xác định được hướng đi, kế hoạch cá nhân góp phần duy trì mối quan hệ tốt đẹp này trong tương lai. Bài chia sẻ của Ngài đại sứ Yamada Takio gồm 2 nội dung chính Phần thứ nhất, khởi nguồn của mối quan hệ Nhật Bản - Việt Nam từ sự cộng hưởng và đồng cảm giữa hai nước; và Phần thứ hai về “Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam bước nhảy vọt hướng tới tương lai, bước ra thế giới”. Ngài Yamada Takio - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam đã đến thăm và có bài chia sẻ về “Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản Khởi nguồn và tương lai” cho hơn 300 giảng viên, sinh viên Trường Đại học Ngoại thương. Trong phần chia sẻ đầu tiên, Ngài đại sứ Yamada Takio đã dẫn chứng các tài liệu lịch sử cùng sự tìm hiểu của các nhà nghiên cứu về sự tương đồng giữa văn hóa, địa lý và mối quan hệ giao thương giữa hai quốc gia. Một số điểm tương đồng giữa hai quốc gia có thể kể đến như Tín ngưỡng kinh A di đà, tín ngưỡng kinh Pháp hoa và Thiền tông; Ảnh hưởng của Nho giáo; Hai quốc gia có vùng biển ở Đông Bắc Á, được phát triển trong môi trường ven núi satoyama. Bên cạnh đó, nhiều tài liệu, sử tích cũng chỉ ra mối quan hệ giao thương, giao lưu văn hóa giữa hai quốc gia đã tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ 8. Hiện nay, minh chứng về sự giao thương vẫn còn tồn tại như các công trình kiến trúc tại phố cổ Hội An; Sản vật của Việt Nam vượt ra khỏi vùng Đông Bắc Á và lưu truyền đến Nhật Bản gốm Chu Đậu, thổ cẩm Chăm-pa. Những sự tương đồng về lịch sử, văn hóa, địa lý cùng sự chăm chỉ, cần cù của người Việt Nam cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự gần gũi, thân thiết giữa con người hai quốc gia. Hơn nữa, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam tháng 10/2011. Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất, đối tác hợp tác lao động thứ 2, nhà đầu tư số 3, đối tác du lịch thứ 3, thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam. Tính đến tháng 5/2023, Nhật Bản có dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 69,4 tỷ USD, đứng thứ 3 trong tổng số 143 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Thành quả tài trợ ODA của Nhật Bản tại Việt Nam có thể kể đến như cầu Nhật Tân, nhà máy xử lý nước An Dương ở Hải Phòng, dự án đào tạo nguồn nhân lực, và nhiều dự án sắp được triển khai trong thời gian tới. Theo Khảo sát “Thực trạng của các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại nước ngoài năm 2022” được Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản Jetro tiến hành tại 20 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á, châu Đại Dương nơi các doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư và công bố ngày 13/2/2023 cho thấy, trong số doanh nghiệp trả lời hợp lệ có 603 doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam, nhiều nhất ASEAN. Khảo sát này cũng cho thấy, các doanh nghiệp Nhật Bản nhìn nhận môi trường kinh doanh của Việt Nam tích cực về khả năng tăng trưởng. Hiện nay có khoảng 500 nghìn người Việt Nam đang sinh sống tại Nhật Bản, là cộng đồng người nước ngoài lớn thứ hai tại Nhật Bản sau Trung Quốc. Đây là con số tăng trưởng ấn tượng chưa từng có trong lịch sử Nhật Bản khi số lượng người Việt Nam sinh sống tại Nhật Bản năm 2011 mới đạt khoảng 50 nghìn người. Số lượng tu nghiệp sinh chiếm khoảng 40% số người Việt Nam sinh sống tại Nhật và là lực lượng không thể thiếu trong sự phát triển của kinh tế Nhật Bản. Đại diện sinh viên Trường Đại học Ngoại thương trao tặng bó hoa tươi thắm thay lời cảm ơn tới Ngài đại sứ Yamada Takio. Phần hỏi đáp giữa sinh viên Trường Đại học Ngoại thương cùng Ngài đại sứ Yamada Takio đã diễn ra sôi nổi. Các bạn sinh viên Nhà trường đã mạnh dạn đặt câu hỏi tới Ngài đại sứ xoay quanh vấn đề như Xu thế toàn cầu hóa và mối quan hệ giữa hai quốc gia; Đánh giá về nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay và lời khuyên cho bạn trẻ Việt Nam khi làm việc trong các doanh nghiệp Nhật Bản; Những lĩnh vực hợp tác phát triển mới giữa hai quốc gia trong kỷ nguyên số,... Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam, Trường Đại học Ngoại thương đã triển khai tổ chức nhiều hoạt động như BizContest 2023 - cuộc thi ý tưởng kinh doanh bằng tiếng Nhật đầu tiên được tổ chức ở Việt Nam với sự đồng hành của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Hà Nội(JETRO Hà Nội cùng sự bảo trợ từ Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam(JCCI và Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI; Triển khai chuỗi bài giảng về phương thức kinh doanh kiểu Nhật Bản với sự xuất hiện của lãnh đạo 8 doanh nghiệp lớn của Nhật Bản,... 07/06/2023
Nếu bạn nghĩ rằng đồ gốm sứ là các mẫu sản phẩm tựa như nhau, nhìn khá giống nhau, khó để phân biệt, … vậy thì, bạn nên tìm hiểu thêm bài viết đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời đại có gì điển hình nổi bật . Đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời đại Thời kỳ sơ khai Ở thời kỳ sơ khai, bên cạnh đồ đá, người ta đã tìm thấy những mảnh gốm ở các di chỉ khảo cổ như Đa Bút Thanh Hóa , Mai Pha TP Lạng Sơn , Quỳnh Văn Nghệ Tĩnh , Hoa Lộc Thanh Hóa . Các nhà khoa học cho rằng, đồ gốm xứ Việt Nam khởi xướng từ quá trình chuyển tiếp từ thời đại đồ đá sang thời kỳ đồng thau . Thời kỳ đồ đá Chất liệu gốm ở tiến trình này thường thô và lẫn nhiều cát. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết mẫu sản phẩm gốm thời này ở di chỉ thời kỳ đồ đá tại Đa Bút Thanh Hóa . Phần lớn gốm được nặn bằng tay và chưa có hoa văn họa tiết gì điển hình nổi bật . Thời đại đồ đồng Gốm thời đại đồ đồng đã có các hoa văn, một số sản phẩm đã được pha thêm màu sắc nhưng chưa phải là men. Thời này chưa có lò nung gốm nhưng với chất lượng gốm khá tốt và đẹp. Thời kỳ đồ sắt Ở thời kỳ này đồ gốm đất sét đã được sản xuất thoáng rộng. Các nhà khảo cổ cho rằng những người làm gốm sử dụng lò đắp để nung nên mới cho ra mẫu sản phẩm có độ bền tốt như vậy . Gốm thời Lý – Trần Đây là quy trình tiến độ đồ gốm đạt được những thành tựu tỏa nắng rực rỡ. Đồ gốm đã được sản xuất hàng với kỹ thuật tốt. Người làm gốm thời kỳ này sử dụng đất sét trắng để làm men và tạo nên những loại sản phẩm gốm thích mắt . Gốm thời này hoàn toàn có thể chia thành ba nhóm lớn lần lượt là Gốm gia dụng, gốm dùng để trang trí và dùng trong kiến trúc. Gốm gia dụng có sự thừa kế dáng sành nâu trước đó, gốm trang trí có nhiều hoa văn tinh xảo, sắc xảo . Gốm kiến trúc thời Lý – Trần đạt đến trình độ cao, có độ bền tốt, được chia thành các kỹ thuật gốm như gốm hoa nâu, gốm men ngọc, gốm men trắng ngà . Thời kỳ nhà Lê Gốm thời nhà Lê nổi tiếng các tên thương hiệu gốm như gốm Chu Đậu và gốm Bát Tràng Gốm Chu Đậu Chu Đậu là xã nhỏ thuộc huyện Thanh Lâm, Nam Sách, Thành Phố Hải Dương. Đây được coi là TT sản xuất gốm sứ của thời bấy giờ. Mặc dù gốm Chu Đậu Open từ cuối thời nhà Trần nhưng phải đến thời Hậu Lê thì mới tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ . Gốm Bát Tràng Bát Tràng là làng nghề làm gốm nổi tiếng từ thời Lý, Trần. Các sản phẩm tại đây vừa thông dụng vừa tinh xảo, lại có độ bền cao nên đáp ứng được nhu cầu sử dụng của đông đảo dân cư thời đó. Điều làm ra điểm đặc biệt quan trọng của gốm Bát Tràng là lớp men trang trí. Phần men này giúp các loại sản phẩm của gốm Bát Tràng vừa bóng đẹp vừa dày dặn, chắc khỏe mà không kém phần tinh xảo . Thời nhà Nguyễn Thời nhà Nguyễn, đồ gốm không có dấu ấn gì điển hình nổi bật bởi đây là quá trình cuộc chiến tranh, kinh tế tài chính suy thoái và khủng hoảng nên nhiều làng nghề gốm sa sút. Cho tới khi quốc gia không thay đổi lại thì gốm sứ Việt Nam mới được hồi sinh và tăng trưởng cho đến tận thời nay . Gốm sứ Việt Nam thời nay Kể từ khi quốc gia được thống nhất quốc gia, gốm sứ Việt Nam mới có điều kiện kèm theo để phát triền và trở thành loại sản phẩm được yêu thích trên toàn quốc tế. Càng ngày, gốm sứ Việt Nam càng được cải tổ về vật liệu, tăng cấp công nghệ tiên tiến để cho sinh ra nhiều loại sản phẩm mới lạ có tính thẩm mỹ và nghệ thuật cao . Trong đời sống thường ngày, không hề phụ nhận tầm quan trọng của đồ gốm sứ. Dù có rất nhiều loại sản phẩm khác thay thế sửa chữa như inox, thủy tinh, … nhưng người dân vẫn tin cậy lựa chọn gốm sứ Việt Nam . Vì sao nên lựa chọn gốm Bát Tràng Đoàn Quang ? Gốm Bát Tràng Đoàn Quang là cơ sở chuyên sản xuất các mẫu sản phẩm gốm sứ hạng sang dựa trên sự thừa kế truyền thống cuội nguồn làm gốm của Bát Tràng, phối hợp với công nghệ tiên tiến làm gốm cổ xưa . Tất cả mẫu sản phẩm do Đoàn Quang phân phối đều có mẫu mã đẹp, bảo vệ về chất lượng, có giá tiền phải chăng, tương thích để sử dụng và làm quà biếu. Đội ngũ nhân viên cấp dưới của Đoàn Quang đều là những người có kỹ thật và kinh nghiệm tay nghề cao nên người mua trọn vẹn hoàn toàn có thể yên tâm về dịch vụ và loại sản phẩm tại đây . Lời kết Đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời đại được nhiều nhà điều tra và nghiên cứu, nhà khoa học nhìn nhận cao ở chất lượng. Càng để lâu, giá trị của các loại sản phẩm gốm sứ ngày càng tăng theo thời hạn. Chúc bạn sớm tìm được những mẫu sản phẩm gốm hữu dụng và bảo vệ tính thẩm mỹ và nghệ thuật cùng gốm Bát Tràng Đoàn Quang . Gốm Bát Tràng Đoàn Quang – Địa chỉ 384 Hà Huy Giáp, Phường Thạnh Lộc, Quận 12, TP. Hồ Chí Minh – hotline 0913 769 770 – 0909 116 270 – E-Mail quangnhubattrang Bài liên quan mekoong
Lịch sử đồ gốm Việt Nam đã bắt đầu từ những món đồ bằng đất sét trộn bột vỏ sò không tráng men, dùng khuôn bằng giỏ đan, màu nâu đậm hay nâu nhạt …qua những vật tích tìm được ở Hoà Bình, ở Bắc Sơn, ở Quảng Yên, ở Thanh Hoá. Trong phạm vi đồ gốm – nét văn minh sơ khởi nhất của con người, bởi vì không có đồ gốm để nấu nướng, cất giữ, ăn uống thì nền văn minh không hình thành – ông cha ta tiếp tục phát huy, học hỏi và ứng dụng kinh nghiệm vào việc chế tạo đồ gốm, tạo nên các nền văn hoá Phùng Nguyên, văn hoá ông Sơn . Dù di tích còn rất ít, nhưng đồ gốm Việt Nam trong thời này đã cho thấy sắc thái của một nền văn hóa cá biệt. Trong những thế kỷ sau đó, đồ gốm Việt Nam đạt được mức phát triển rất cao, đã xuất cảng sang Ả Rập, Nam Dương… Thạp, hũ, liễn trang trí hoa và chim. Gốm hoa nâu, triều Trần thế kỷ 13,14. Sang thế kỷ thứ 10, đồ gốm mang một sắc thái khác với nước men trong, dày, khá đều, với hoa văn chim hạc, cọp, voi, hoa sen, hoa cúc… đã xuất hiện nhiều. Người thợ Việt Nam đã biết cách làm các đường rạn thưa hay dày theo ý muốn. Rồi từ đời Lý đầu thế kỷ 11 đồ gốm Việt Nam phát triển một cách huy hoàng. Nhiều loại men các loại Lý Nâu, Lý en, Lý Trắng, Lý Lục, men ngọc, nhiều hoa văn, nhiều thể loại tràn lan khắp nơi, từ chốn triều đình, chùa, miếu đến thôn dã trong suốt từ thế kỷ 11 đến hết thế kỷ 16 đời Hậu Lê. Hình dáng gốm Việt Nam gồm có dĩa, đĩa, tô, chén, lọ, chai và bình. Cả những kiểu đặc biệt tạo ra bởi nghệ nhân đời Minh như hũ và chén có bệ của thời kỳ 1403-1424 cũng có tương đương trong các loại đồ gốm Việt Nam. Đồ gốm đất Việt Nam được cấu tạo dày và chắc hơn đồ gốm đất Trung Hoa. Thân hình cấu tạo bên ngoài màu nâu và ít có bị lẫn chất bụi hoặc sạn. Dưới chân đồ gốm đất hoặc là để nguyên hoặc được tráng một lớp trơn không màu hoặc một lớp tráng oxide sắt màu nâu. Có đủ loại các lớp trán trên đồ gốm Việt Nam. Loại đồ gốm tráng một màu là những loại thông dụng được xuất khẩu trong thời kỳ đầu. Trắng, xanh cây, đen và nâu là những loại thông dụng và được biết nhiều. Sự tiến triển của kỷ thuật đồ gốm trong giai đoạn đầu là sự trình bày bằng lớp oxide sắt đen và nâu dưới lớp tráng. Sắc thái trình bày rất thanh thoát và giản dị so với lối trình bày trên đồ gốm Trung Hoa. Sự chuyển tiếp từ lối trình bày bằng oxide sắt đến cách dùng cobalt xanh trời là một sự cải tiến quan trọng trong nghệ thuật đồ gốm Việt Nam và chứng kiến một mức độ sản xuất về xuất khẩu chưa từng có trong lịch sử đồ gốm Việt. Thống trang trí hoa sen, cúc dây. Gốm hoa nâu, triều Trần, thế kỷ 13 – 14 Những kiểu trình bày Việt Nam có đặc tính thanh thoát, sáng tạo độc lập khác hẳn với sự xếp đặt phong cảnh, sinh thú của lối trình bày Trung Hoa. Chim, cá, ngựa và nai là những sinh thú thường được trình bày cũng như các con vật huyền thoại như lân và phượng. Rồng tuy vậy lại rất hiếm trong các lối trình bày. Con cá trong đồ gốm Việt Nam, không giống cá kiểng đỏ của đồ gốm Trung Hoa, mà là con cá bông của sông ngòi Việt Nam. Đến giữa thế kỷ 15, đồ gốm xanh trời và trắng chiếm vị trí hàng đầu trong những hàng xuất khẩu. Cũng trong khoảng thời gian nay, một loại đồ gốm mới xuất hiện với cách dùng men trắng, chủ yếu màu đỏ và xanh trời, và thường phối hợp với lớp trình bày xanh trời ở lớp dưới. Nói đến tuyệt đỉnh của Gốm cổ Việt Nam ta không thể không nhắc đến tên “ Gốm Chu Đậu”. Đồ gốm Chu Đậu chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy biển suốt mấy trăm năm. Những món còn được lưu giữ ở các viện bảo tàng bên Châu Âu thì đã từng bị xếp lộn vào đồ gốm Trung Hoa. Đồ gốm Chu Đậu được phát hiện nhiều trong các ngôi mộ cổ, đình chùa, từ đường và nhiều nhất là dưới các tầu buôn chìm ngoài khơi Hội An, Đà Nẵng… Đồ gốm Chu Đậu hình dáng thanh tao, nước men trong mà mỏng, hoa văn đầy hình ảnh đời sống thôn làng Việt Nam. Đồ gốm Chu Đậu bắt đầu được sản xuất từ cuối thế kỷ 14, rực rỡ nhất vào thế kỷ 15, 16 rồi tàn lụi vào đầu thế kỷ 17, trong khi các lò gốm khác ở Hải Dương còn sản xuất những món đồ không men nồi đất, chum, vạị.. cho đến thế kỷ 18, hay cho mãi đến bâygiờ như làng Cậy, làng Lâm Xuyên chuyên làm nồi đất không men. Đồ gốm Chu Đậu cũng có nhiều thứ như men ngọc celadon, men nâu, men trắng, men lục. Tuy nhiên tiêu biểu nhất là men trắng trong với hoa văn mầu xanh men trắng chàm và men trắng trong với hoa văn ba mầu vàng, đỏ nâu và xanh lục men tam thái Men ngọc, men trắng, men nâu và men nâu đen thường bị lẫn với đồ gốm đời Lý Trần, tuy nhiên, hoa văn trên men Lý nhiều ảnh hưởng Phật Giáo, hoa văn Chu Đậu phản ảnh đời sống nông thôn Việt Nam, hoa văn trên men Lý thường được vẽ bằng cách khắc chìm hay khắc nổi, hoa văn Chu Đậu được vẽ bằng men mầu, men ngọc thời Chu Đậu cầm thấy nặng tay, chất đất thô hơn và tiếng gõ không thanh như men ngọc của người Tầụ Bình ấm thời Lý thường có vòi hình đầu rồng, hình vòi voi, hình đầu chim… Ngày nay, gốm trong tâm thức người Việt là Gốm của làng Bát Tràng, làng gốm Phù Lãng…tuy gốm hiện đại cũng có một số nét thay đổi nhưng về cơ bản vẫn giữ được truyền thống và linh hồn của gốm xưa. Có thể coi Gốm là dấu ấn của một nền văn minh lúa nước, của một nền văn hóa thuần Việt. Tác giả Thùy Dung Tổng hợp Continue Reading
Bài đăng lúc 22 21 5759 Lượt xem Gốm sứ Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển khá dày dặn và có nhiều biến đổi qua các thời kỳ. Để giúp bạn đọc hiểu hơn về quá trình hình thành và phát triển gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ, hãy cùng chúng tôi đọc hết bài viết sau đây nhé. Lịch sử phát triển gốm sứ Việt Nam Để có được sự phát triển mạnh mẽ như ngày nay, gốm sứ Việt Nam đã trải qua hàng trăm năm xây dựng, giữ gìn, bảo tồn và phát triển. Tuy có nhiều biến cố, thăng trầm trong lịch sử nhưng tinh hoa gốm sứ Việt Nam vẫn luôn luôn giữ mình, luôn có sự đổi mới và để lại một kho tàng các tác phẩm gốm sứ đặc sắc. Vào khoảng 6000 – 7000 năm trở về trước, gốm sứ đã bắt đầu manh nha hình thành trên đất nước ta. Gốm sứ đã xuất hiện ở nhiều vùng trên đất nước, trải qua bao nhiêu thăng trầm gốm sứ Việt Nam đã có lúc phát triển mạnh, nhưng cũng có lúc gặp khó khăn lớn. Có nhiều làng nghề vẫn còn tồn tại và phát triển cho tới ngày nay nhưng ngược lại cũng có những làng nghề dần mai một và biến mất đi khỏi bản đồ gốm sứ Việt Nam. Gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ Gốm sứ Việt Nam thời kỳ tiền sử Vào thời kỳ tiền sử, gốm sứ Việt Nam vẫn còn rất thô sơ, các sản phẩm gốm được nhào nặn bằng tay, nguyên liệu chủ yếu là đất pha cát hoặc pha tạp chất. Hoa văn trang trí cực đơn giản, được vẽ bằng các vật sắc nhọn với các vạch chéo, răng cưa… được vẽ khi sản phẩm vẫn còn ướt. Gốm sứ Việt Nam thời kỳ đồ sắt Gốm sứ Việt Nam vào thời kỳ đồ sắt cũng còn rất thô sơ và chưa có gì đặc sắc so với thời kỳ tiền sử. Đồ gốm sứ chủ yếu vẫn là các sản phẩm nông nghiệp và các vật dụng sinh hoạt trong trong gia đình. Gốm sứ Việt Nam thế kỷ 2 trước Công nguyên Thời kỳ này, đất nước ta bị Trung Quốc đô hộ nên nền sản xuất gốm sứ chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Trung Hoa. Các sản phẩm gốm sứ thời kỳ này đã phong phú hơn, các kiểu dáng hoa văn trang trí theo phong cách Hán và được cải biên hơn trước. Gốm thời Lý – Trần Đây là thời kỳ gốm sứ Việt Nam có sự phát triển rực rỡ, đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử gốm sứ Việt Nam. Quy mô sản xuất gốm sứ được mở rộng, sản phẩm trở nên phong phú về chủng loại, mẫu mã với các chất liệu men trắng ngà nổi bật cùng với gốm men nâu, men xanh,… Gốm sứ thời Lý – Trần được đánh giá là rất tinh tế, lớp men dày mịn phủ kín, bám chắc, màu gốm xanh ngọc còn được điểm thêm các gam màu đặc biệt như vàng chanh, vàng xám nhạt, vàng rơm,… Họa tiết trang trí trên gốm sứ thời kỳ này chủ yếu là hoa lá, chim thú, người,… Các hoa văn trang trí thường đơn giản và gắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân Việt Nam. Gốm sứ thời kỳ Lý- Trần đánh dấu bước ngoặt mới trong ngành sản xuất gốm sứ với việc sử dụng lò nung con cóc, lò nằm,… thể hiện bước phát triển rực rỡ của gốm sứ Việt Nam. Gốm sứ Việt Nam từ sau thế kỷ 14 Từ sau thế kỷ 14 gốm sứ Việt Nam kế thừa và tiếp tục phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của một số làng nghề nổi tiếng như gốm sứ như Bát Tràng, Thổ Hà, Chu Đậu, Phù Lãng… Sản phẩm gốm sứ Việt Nam sau thế kỷ 13 rất đa dạng về mẫu mã, chủng loại,… Đặc biệt gốm sứ thời kỳ này còn được xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc… Đặc biệt thời kỳ này đã có sự xuất hiện của sản phẩm gốm hoa lam, gốm chạm đắp nổi đầy tinh tế. Kỹ thuật nung gốm thời kỳ này đã phát triển hơn với việc sử dụng các lò nung cỡ lớn điều chỉnh được nhiệt lượng. Gốm sứ Việt Nam từ thế kỷ XX đến nay Gốm sứ Việt Nam đến nay đã thừa kế và phát triển hơn rất nhiều so với thời kỳ trước các lò nung thủ công đã được thay thế bằng các lò lung gas hiện đại và an toàn, bảo vệ môi trường, sản phẩm làm ra với mẫu mã đẹp mắt, hoa văn họa tiết phong phú, nổi bật. Có thể nói lịch sử hình thành và phát triền nền văn hóa gốm sứ Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. Tuy nhiên với tâm huyết và bàn tay tài hoa, khéo léo của những nghệ nhân cùng lòng nhiệt huyết với các sản phẩm gốm sứ đã giúp cho những sản phẩm gốm sứ Việt Nam không chỉ phát triển trong nước mà còn nhanh chóng vươn ra khỏi lãnh thổ Việt Nam và được đông đảo bạn bè quốc tế, người tiêu dùng ưa chuộng.
Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 02/03/2015, 0137 . như Đồ sứ men trắng vẽ lam, đồ sứ ngự dụng và quan dụng thời Lê - Nguyễn, đồ sứ ký kiểu của Triều Nguyễn, gốm men xanh trắng của triều Nguyễn, gốm lam Huế, đồ sứ đặc chế, đồ Lam Huế, đồ sứ đặt. mẫu qua đặt lò gốm tại Giang Tây - Trung Quốc. Thuật ngữ đồ sứ ký kiểu ĐSKK trong sách này được dùng để chỉ những đồ sứ do người Việt Nam, gồm cả vua, quan và thường dân, đặt làm tại các lò gốm. từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và hoa văn trang trí. Cũng chính vì đặc thù này nên việc phân tách giữa gốm thời - Xem thêm -Xem thêm Đồ gốm sứ việt nam qua các thời đại, Đồ gốm sứ việt nam qua các thời đại,
gốm sứ việt nam qua các thời kỳ